Phần mềm vi phạm bản quyền và chia sẻ file đã hiện diện trước lúc Internet phát triển như ngày nay, chủ yếu thông qua message board (diễn đàn trực tuyến/forum) và các trang FTP riêng. Nhưng thật là đơn điệu khi việc tìm kiếm file thậm chí còn lâu dài hơn việc tải xuống chúng. Cách phổ biến hơn để xong xuôi được được phần mềm là lấy một bản sao vật lý trực diện từ một người bạn (thường được coi là “sneakernet”).
Chia sẻ file P2P đã thay đổi tất cả điều đó. Nhờ phương pháp này, bạn có quyền truy cập trực diện vào dữ liệu được chia sẻ của người khác. Vậy bạn đã biết P2P là gì, nó hoạt động như làm sao và nó bắt đầu từ đâu chưa? Hãy cùng tìm hiểu qua bài viết sau đây nhé!
Phương pháp chia sẻ file ngang hàng (peer-to-peer) hoạt động như thế nào?
- Lưu ý trước khi bắt đầu
- P2P không phải mô hình máy khách – máy chủ
- Peer-to-Peer là gì?
- Tóm tắt lịch sử của các phần mềm P2P trước đây
- Giao thức BitTorrent
Lưu ý trước lúc bắt đầu
Tất nhiên, công nghệ chia sẻ file ngang hàng không được sử dụng cho mục tiêu vi phạm bản quyền. Nhưng nếu thành thật mà nói, đó là nguyên do ban đầu mà cách thức này được tạo ra.
Khía cạnh chia sẻ file của công nghệ P2P được nhắc đến khá nhiều, nhưng chắc chắn đây không phải là tình huống sử dụng duy nhất. Bạn cũng nên lưu ý rằng thuật ngữ P2P còn kể cả một loạt các mạng trong vài thập kỷ qua kể từ thời điểm chúng được sáng kiến lần đầu tiên, vì vậy không phải mọi thứ ở đây đều cũng có thể có thể áp dụng trong mọi trường hợp.
P2P không phải loại hình máy khách – máy server
Trước tiên, có một vấn đề cần làm rõ về peer-to-peer. Đa phần Internet hoạt động dựa theo loại hình máy khách – máy chủ.
Một trang web được lưu trữ trên một máy chủ hùng mạnh ở nơi nào đó trên toàn cầu (dịch vụ lưu trữ web tốt nhất), và cung cấp các tin tức khi máy tính hoặc điện thoại của bạn yêu cầu. Đây cũng có thể có thể là một phông chữ được dùng để làm hiển thị trang web chính xác, hoặc là một Linux ISO 2GB bạn muốn tải xuống. Máy chủ sẽ gửi file cho bạn. Khi người dùng kế đến yêu cầu, công đoạn sẽ lặp lại.
Điều này thích hợp cho hoạt động của các trang web, nhưng vẫn không phù hợp lắm với việc phân phối các file có kích cỡ lớn. Chủ yếu là vì các vấn đề về tốc độ, băng thông, chi phí và tính hợp pháp.
Tốc độ trên một máy server web truyền thống khá hạn chế. Sẽ tốt hơn nếu chỉ truyền một lượng nhỏ văn bản để hiển thị một trang web và một số máy chủ web được tối ưu hóa chỉ để phục vụ phần hình ảnh mà thôi. Nhưng đối với những file có kích cỡ lớn hơn, điều kia sẽ đòi hỏi một tốc độ mau hơn biết bao trong thời gian dài và việc phải chia sẻ máy server với người sử dụng khác. Băng thông cũng tương đối tốn kém. Chỉ phục vụ những hình ảnh cho một trang web thôi cũng tốn đến hàng ngàn đô la một năm.
Từ quan điểm pháp lý, việc xác định một máy server dễ dàng là kha khá dễ dàng: Tắt máy chủ rồi truy tố chủ sở hữu. Do đó, P2P chào đời giống như một biện pháp cứu cánh. Còn những người muốn phân phối các file có bản quyền cần một cách tốt hơn để thực hiện việc này.
Peer-to-Peer là gì?
Peer-to-peer là một mô hình hoàn toàn khác, trong đấy mỗi người trở thành một máy chủ. Không có máy server trung tâm; mọi thứ những người dùng mạng nhập vai trò là máy chủ của riêng mình. Thay vì chỉ dễ dàng là lấy các file, peer-to-peer biến qui trình này thành “con đường hai chiều”.
Bây giờ bạn cũng có thể đáp hoàn lại những người sử dụng khác. Trong thực tế, việc đáp trả lại này (ngày nay được coi là “seeding”) đóng vai trò rất quan trọng cho sự thành đạt của các mạng ngang hàng. Nếu tất cả mọi người chỉ cần tải về mà không có hành động đáp trả bất cứ điều gì cả (gọi là “leeching”), thì điều đó sẽ chẳng có lợi ích gì hơn so với loại hình máy chủ – máy khách cả.
Trong mô hình máy server – máy khách, năng suất hạ xuống nếu có nhiều người dùng, vì đường truyền sẽ được chia sẻ cho nhiều người sử dụng hơn. Trong các mạng ngang hàng, càng có nhiều người dùng thì càng khiến cho mạng hữu hiệu hơn. Càng nhiều người dùng tạo một file cụ thể có sẵn từ ổ hdd của họ thì người dùng mới có thể nhận file đó càng dễ dàng hơn.
Trong các mạng P2P hiện đại, vận tốc sẽ đích thực nhanh hơn khi nhiều người dùng tải xuống file. Thay vì lấy toàn bộ file từ một người dùng, bạn đang lấy các phần nhỏ hơn từ hàng trăm hoặc hàng nghìn người khác. Ngay cả khi họ chỉ có 1 chút băng thông trống cho bạn, việc phối hợp nhiều kết nối có tức là bạn sẽ thu được tốc độ kịp thời nhất có thể. Sau đó, đến lượt bạn đóng góp để phân phối các file một lần nữa.
Trong các hình thức ngày xưa của mạng P2P, vẫn cần có máy chủ dịch vụ để tổ chức mạng, hoạt động như 1 cơ sở dữ liệu chứa tin tức về người sử dụng và file được kết nối có sẵn trong hệ thống. Mặc dù trọng trách truyền file nặng nề đã được thi hành trực tiếp giữa những người dùng với nhau nhưng các mạng vẫn dễ dẫn đến ảnh hưởng. Đánh bại máy chủ đơn vị có tức là vô hiệu hóa hoàn toàn thông tin liên lạc.
Điều này không còn hiện hữu nhờ những phát triển gần đây. Ngày nay, ứng dụng có thể truy vấn ngang hàng trực diện nếu chúng thấy một file cụ thể. Không có cách nào để đánh bại các mạng này, chúng đích thực chẳng thể bị phá vỡ.
Tóm tắt lịch sử của các ứng dụng P2P trước đây
Bạn có một khái niệm cơ bản về lý do tại sao các mạng ngang hàng lại được nghĩ là 1 cuộc cách mạng so với mô hình máy khách – máy chủ. Bây giờ, hãy xem nhanh về lịch sử của các ứng dụng P2P trước đây.
Napster, ra mắt vào năm 1999, là phần mềm được triển khai rộng rãi đầu tiên của mô hình peer-to-peer. Đây là một cơ sở dữ liệu cửa hàng chứa thông tin về tất cả những file nhạc do các thành viên nắm giữ. Bạn có thể tìm kiếm một bài hát từ máy server dịch vụ này, nhưng để tải xuống, bạn sẽ phải thực sự kết nối với một người dùng trực tuyến khác và sao chép file từ họ. Đổi lại, một khi bạn đã có bài hát đó trong thư viện Napster của mình, nó sẽ trở thành một nguồn có sẵn cho các người khác trên mạng.
Bạn cũng có thể thêm các file của riêng mình, sau đó Napster sẽ lập chỉ mục và thêm nữa cơ sở dữ liệu, sau đó sẵn sàng phân phối các file đó trên toàn thế giới. Tuy nhiên, việc triển khai bị giới hạn ở chỗ bạn chỉ cũng có thể có thể tải xuống từ một người. Dịch vụ có ưu điểm là tính sẵn sàng cao của các bài hát, nhưng bù lại vận tốc không hơn lớn.
Nhờ vào điều này, khái niệm về peer-to-peer đã được cả toàn cầu biết đến.
Napster cuối cùng đã ngừng hoạt động vào năm 2001, sau lúc các mạng tương tự được tạo ra để cung cấp nhiều thứ khác, chẳng những là âm nhạc. Phim ảnh, ứng dụng và hình ảnh đã có sẵn trên các mạng Morpheus, Kazaa và Gnutella (trong số đó, Limewire có lẽ là phần mềm khách Gnutella nổi tiếng nhất).
Qua nhiều năm, nhiều giao thức và phần mềm chia sẻ file ngang hàng khác nhau đã xuất hiện và biến mất, nhưng một giao thức mở trong những kia đã được giữ lại: BitTorrent.
Giao thức BitTorrent
Được thiết kế vào năm 2001, BitTorrent là một giao thức mã nguồn mở, nơi người sử dụng tạo một file meta (được xem là file torrent) chứa tin tức về bản tải xuống, mà không đích thực cung cấp dữ liệu tải xuống. Trình theo dấu (tracker) là nhân tố cần có để lưu trữ các file meta này, cùng theo với những người hiện đang lưu trữ file đó. Tuy nhiên, như một giao thức mở, bất kỳ ai cũng cũng có thể lập trình phần mềm máy khách hoặc tracker.
Vì vậy, mặc dầu nó cần một tracker dịch vụ để duy trì cơ sở dữ liệu của những file có sẵn, nhiều tracker khác có thể hiện diện cùng lúc. Bất kỳ file miêu tả torrent nào cũng cũng đều có thể đăng ký với nhiều tracker. Điều này khiến cho mạng BitTorrent cực kỳ mạnh mẽ và hầu như chẳng thể hoàn toàn bị phá hủy.
Kể từ khi ra mắt lần đầu, các nâng cấp khác đã được thực hiện, nhằm cấp phép người sử dụng tải xuống mà không cần tracker. DHT (distributed hash table – bảng băm phân tán) có nghĩa là công việc lập chỉ mục các file có sẵn cũng có thể có thể phân phối bởi mọi thứ người dùng. Magnet link không phải như vậy. Về cơ bản, Magnet link hoạt động tựa như một file torrent bình thường, với đầy đặn tin tức để máy tính cũng có thể tải xuống một file dữ liệu từ những “peer” (có thể hiểu là nguồn tải xuống hay những người đã tải xong file dữ liệu tương tự). Tuy nhiên Magnet link không hiện diện dưới dạng một file cố định như torrent mà chỉ là một đoạn text chứa mọi thứ mọi thông tin.
Hy vọng những thông tin trên đã giúp bạn hiểu thêm về mạng ngang hàng và nơi nó bắt đầu. Không có gì phải bàn cãi khi nói rằng mạng P2P đã thay đổi Internet mãi mãi. Với đỉnh điểm vào năm 2006, ước tính rằng các mạng P2P chiếm đến 70% lưu lượng truy cập trên toàn bộ Internet.
Kể từ đó, việc sử dụng các mạng này đã giảm mạnh, chủ yếu là do các công ty phát video trực tuyến dễ dàng truy cập như Netflix và YouTube, kết hợp với những công ty phát nhạc trực tuyến như Spotify. Các mạng P2P đã lấp đầy một khoảng trống quan trọng trong lịch sử Internet lúc các cửa hàng media truyền thống gặp khó khăn trong việc bắt kịp nhu cầu của người dùng.
Bạn đã từng có cơ hội sử dụng Napster chưa? Bạn đã chia sẻ file thông qua torrent chưa? Hãy cho chúng tôi biết quan điểm của bạn trong phần bình luận bên dưới nhé!
Xem thêm:
- Tương lai của chia sẻ file qua mạng ngang hàng
- Top 22 trang web chia sẻ torrent thông dụng nhất
- Cách chia sẻ file trực tuyến trên LicketyLink
- Hướng dẫn chia sẻ file qua dịch vụ Take A File
- Cách ISP cũng đều có thể xem file bạn torrent là gì
chia sẻ file,P2P,Peer to Peer,chia sẻ file ngang hàng,chia sẻ file P2P,chia sẻ file Peer to Peer,Peer to Peer là gì,giao thức BitTorrent
Nội dung Phương pháp chia sẻ file ngang hàng (peer-to-peer) hoạt động như thế nào? được tổng hợp sưu tầm biên tập bởi: Tin Học Trường Tín. Mọi ý kiến vui lòng gửi Liên Hệ cho truongtin.top để điều chỉnh. truongtin.top tks.
Bài Viết Liên Quan
Bài Viết Khác
- Địa Chỉ Cài Win Quận 3 – Cài Đặt PC Laptop Tại Nhà Q3
- Sửa Wifi Tại Nhà Quận 4
- Sửa Laptop Quận 3
- Dịch Vụ Cài Lại Windows 7,8,10 Tận Nhà Quận 4
- Dịch Vụ Cài Lại Windows 7,8,10 Tận Nhà Quận 3
- Tuyển Thợ Sửa Máy Tính – Thợ Sửa Máy In Tại Quận 4 Lương Trên 10tr
- Tuyển Thợ Sửa Máy Tính – Thợ Sửa Máy In Tại Quận 3
- Địa Chỉ Vệ Sinh Máy Tính Quận 3 – Dịch Vụ Giá Rẻ
- Nạp Mực Máy In Đường Học Lạc Quận 5
- Mời tải game đua xe Trials Rising miễn phí trên Ubisoft
- Cách gọi video Messenger chọn phông nền
- Cách tải video lên Bilibili
- Cách sử dụng File Explorer không cần chuột trên Windows 10






