Dịch vụ sửa máy tính pc laptop máy in - Nạp mực máy in Trường Tín Tphcm
Dịch vụ sửa máy tính pc laptop máy in - Nạp mực máy in Trường Tín Tphcm

Giới thiệu về địa chỉ IPv6

--
Web Tin Học Trường Tín có bài: Giới thiệu về địa chỉ IPv6 IPv6 (Internet Protocol version 6) là phiên bản mới nhất của Giao thức Internet (IP), giao thức truyền thông cung cấp một hệ thống định vị vị trí cho các máy tính trên mạng và định tuyến lưu lượng trên Internet. IPv6 đã được IETF phát triển để giải quyết vấn đề cạn kiệt địa chỉ IPv4. IPv6 được dự định để thay thế IPv4.

IPv6 là gì?

IPv6 (Internet Protocol version 6) là phiên bản mới nhất của Giao thức Internet (IP), giao thức truyền thông cung cấp một hệ thống xác định vị trí cho những máy tính trên mạng và định tuyến lưu lượng trên Internet. IPv6 đã được IETF phát triển để giải quyết vấn đề cạn kiệt địa điểm IPv4. IPv6 được tạo nên để thay thế IPv4.

Như vậy, giao thức IPv6 đang dần được dùng thông dụng và chúng tôi viết loạt bài viết này để giới thiệu cho các bạn về giao thức IPv6.

Lịch sử sinh ra của IPv6

Internet Engineering Task Force (IETF) là tổ chức nhận trách nhiệm về việc định vị các tiêu chuẩn Giao thức Internet (IP). Khi phát triển IPv4, IETF dường như không dự báo trước được sự phát triển quá nhanh của Internet toàn cầu cũng như những vấn đề bảo mật Internet quan trọng khác. Trong thiết kế mới đầu của IPv4, an ninh mạng không được cho trọng. Vào những năm 1980, khi IPv4 đang được phát triển, thì Internet mới đang được xây dựng dưới sự hợp tác của một số tổ chức. Đến khi IPv4 hoàn tất, cũng chính là lúc Internet bắt đầu bùng nổ, các mối dọa dẫm trên Internet trở nên phổ biến. Nếu môi trường hiện tại của các mối trực tuyến được dự báo ngay từ khi phát triển IPv4 thì chúng ta đã có nhiều biện pháp bảo mật hơn được kết hợp với thiết kế của nó. Nhưng điều kia đã không xảy ra.

Đầu những năm 1990, IETF đã công nhận rằng cần có 1 phiên bản IP mới và họ bắt đầu bằng việc soạn thảo các yêu cầu mà bản IP này phải có. IP Next Generation (IPng) đã được tạo ra, sau đó trở thành IPv6 (RFC 1883) như ngày nay. IPv6 là giao thức lớp mạng chuẩn thứ 2 sau IPv4, được dùng cho truyền thông máy tính thông qua Internet và các mạng máy tính khác. IPv6 cung cấp một số chức năng cuốn hút và thực thụ là bước tiếp theo trong quá trình phát triển IP. Những cải tiến này cho dù là việc tăng không gian địa chỉ, định hình header được sắp xếp hợp lý, header cũng có thể có thể mở rộng và khả năng duy trì tính riêng tư, toàn vẹn của thông tin được truyền trong mạng. IPv6 sau kia được chuẩn hóa hoàn tất vào cuối năm 1998 trong RFC 2460. IPv6 đã hoàn thiện những thiếu sót mà IPv4 để lại và tạo nên những cách mới để truyền thông mà IPv4 chẳng thể hỗ trợ.

IPv6 cung cấp một số nâng cấp so với IPv4. Ưu điểm của IPv6 được trình bày khá chi tiết trong các tài liệu liên quan. Dưới này là những đặc tính tóm tắt của IPv6 và những nâng cấp mà nó cũng đều có thể cung cấp:

  • Không gian địa điểm lớn hơn: Tăng từ 32bit lên 128bit.
  • Header của giao thức được cải tiến: Cải thiện năng suất chuyển tiếp gói tin.
  • Tự động cấu hình không trạng thái: Để các nút tự định vị địa điểm của riêng mình.
  • Multicast: Tăng cường sử dụng truyền thông một chiều hiệu quả.
  • Jumbograms: Hỗ trợ các packet payload cực to cho hữu hiệu cao hơn.
  • Bảo mật lớp mạng: Mã hóa và xác thực truyền thông.
  • Khả năng QoS (Quality of service): Đánh dấu QoS cho những gói tin và dán nhãn để giúp định vị những traffic càng phải được ưu tiên.
  • Anycast: Dịch vụ dự phòng sử dụng những địa chỉ không có cấu trúc đặc biệt.
  • Tính di động: Dễ dàng hơn khi xử lý với thiết bị di động hay chuyển vùng.

Giới thiệu về địa chỉ IPv6
Nguồn ảnh: Wikipedia

Không gian địa điểm IPv6

Sự không trùng lặp đáng kể nhất giữa hai giao thức này là chiều dài của địa điểm nguồn và địa chỉ của chúng. Việc chuyển qua sử dụng IPv6 là do ngày càng thiếu về số địa điểm IP. Giao thức IPv6 này còn có một không gian địa điểm lớn hơn so với giao thức IPv4.

Giới thiệu về địa chỉ IPv6 Giao thức IPv4 sử dụng một địa điểm nguồn và địa chỉ đích là 32bit. Các địa điểm này được biểu diễn thành bốn phần. Một địa điểm IPv4 điển hình có dạng như 192.168.0.1 .

Tương phản với IPv4, địa điểm IPv6 có chiều dài là 128bit. Điều đó cấp phép có thể biểu diễn đến 3.4×1038 ( 340.000.000.000.000.000.000.000.000.000.000.000.000 ) địa chỉ. Có một vài sự không trùng lặp trong cách biểu diễn địa chỉ của IPv6. Một địa điểm IPv6 thường được viết thành 8 nhóm, mỗi nhóm gồm có 4 số hex và mỗi nhóm được cách ly với nhau bằng dấu “ : ”. Ví dụ như sau thể hiện điều này 2001:0f68:0000:0000:0000:0000:1986:69af .

Bạn đang coi xét địa chỉ mẫu ở trên và cho rằng việc đánh một địa điểm IPv6 phải rất mất thời gian và công sức? Nhưng không như vậy, địa điểm IPv6 chỉ có thể được viết vắn tắt bằng sự việc giảm thiểu các số 0. Có hai nguyên tắc phải tuân theo ở đây khi biểu diễn một địa điểm IP. Đầu tiên, một dãy bốn số 0 liên tục có thể được thay thế bằng hai dấu “ :: ”. Bằng cách đó địa chỉ IPv6 ở trên có thể được viết tắt như sau: 2001:0f68::0000:0000:0000:1986:69af .

Trong thí dụ ở trên, chúng ta chỉ có thể ước lượng một khối các chữ số 0 bởi vì nguyên lý này phát biểu rằng chỉ có 1 cặp “ :: ” trong một địa chỉ. Rõ ràng, địa điểm mà đang ví dụ phía trên vẫn còn rất nhiều chữ số luôn phải đánh. Tuy nhiên, nguyên tắc thứ 2 sẽ cấp phép bạn thực hiện địa chỉ này ngắn hơn. Nguyên tắc thứ hai nói rằng, các số 0 trong 1 nhóm cũng có thể được bỏ qua. Nếu một khối 4 số bắt đầu của nó là số 0 thì số 0 này cũng có thể được lược bỏ bớt để lại là 3 số 0 trong khối. Nếu khối ba số kia cũng lại bắt đầu với một số 0 đứng đầu thì ta cũng có thể tiếp tục loại bỏ . Và cứ như vậy đến khi gặp số khác 0 trong nhóm thì dừng. Trường hợp nếu 4 số trong group đều là 0 thì số được giữ lại cuối cùng là một số 0. Nếu cứ nói mãi mà không biểu diễn trong thí dụ cụ thể để các bạn dễ theo dấu thì đó là một thiếu sót. Dưới đây là những gì mà chúng ta có thể áp dụng cả hai nguyên lý đó cho địa chỉ ví dụ:

2001:0f68:0000:0000:0000:0000:1986:69af
2001:f68:000:000:000:000:1986:69af
2001:f68:00:00:00:00:1986:69af
2001:f68:0:0:0:0:1986:69af
2001:f68::1986:69af

Lưu ý rằng trong mỗi dòng, chúng mình đã lược bỏ bớt một số 0 trong mỗi nhóm. Khi mà các phần còn sót lại là các số lượng 0 chúng ta lại cũng có thể áp dụng thay thế 4 số 0 liên tiếp bằng hai dấu “ :: ”. Điều này chỉ cũng có thể có thể thi hành được nếu bốn số 0 đi liền nhau mà thôi. Nếu không thỏa mãn điều kiện đó thì chúng ta phải để nguyên các số 0.

Sử dụng các địa chỉ IPv6 trong URL

Mặc dù các máy server DNS có thể truy cập vào một website bằng phương pháp dùng tên miền thay cho sử dụng một địa chỉ IP, nhưng bạn vẫn cũng đều có thể vào một địa chỉ IP thay cho 1 phần của 1 URL. Ví dụ, một website cá nhân sử dụng URL là www.quantrimang.com , tương ứng với nó là địa điểm IP 24.235.10.4. Với địa chỉ IP như vậy, tôi tận gốc có thể truy cập vào website bằng cách nhập vào URL: http://24.235.10.4

Hầu hết những người lướt web thường không sử dụng thói quen nhập vào địa điểm IP. Tuy vậy, việc truy cập theo kiểu này vẫn tồn tại. Điều này đặc biệt đúng với các ứng dụng web riêng lẻ. Khi không liên quan đến một tên miền, một ứng dụng có khả năng tránh được người dùng trái phép dò dẫm và nhảy vào phần mềm của bạn 1 cách tình cờ.

Khi một địa chỉ IP được dùng thay thế cho 1 tên miền, thì số cổng đôi lúc được chỉ định như 1 phần của địa chỉ. Nếu bạn chỉ dễ dàng nhập vào sau HTTP:// sau đó là một địa chỉ thì trình duyệt sẽ công nhận rằng bạn mong muốn sử dụng cổng 80. Mặc dù vậy, bạn cũng có thể có thể chỉ định bất kỳ cổng nào để truy cập đến website, tỉ dụ nếu bạn mong muốn truy cập đến website www.quantrimang.com bằng địa điểm IP và cụ thể là cổng 80 được sử dụng thì lệnh nên dùng đó là http://24.235.10.4:80

Giao thức IPv6 cũng vậy, nó cũng được dùng như một phần của 1 URL. Nhưng nếu đoái hoài đến định dạng IPv6 thì bạn nên lưu ý rằng một địa điểm IPv6 gồm có rất nhiều dấu “ : ”. Điều này đã nảy sinh một vấn để khi trình duyệt của bạn xử lý bất cứ những cái gì đó phía đằng sau dấu “ : ” như một số chỉ thị của cổng. Trong trường hợp đó, các địa chỉ IPv6 được phân biệt bên trong dấu ngoặc khi chúng được sử dụng như phần nào của URL. Ví dụ: nếu bạn đã sử dụng địa chỉ IPv6 mẫu trong 1 URL thì nó sẽ giống như thế này:

HTTP://[2001:0f68:0000:0000:0000:0000:1986:69af]/

Giống như cũng đều có thể chỉ định số của cổng với địa điểm IPv4, bạn cũng có thể chỉ định số cổng khi dùng địa điểm IPv6. Số cổng phải đi sau cùng một định dạng bắt buộc như khi sử dụng IPv4. Và ở bên ngoài các dấu ngoặc. Ví dụ, nếu bạn mong muốn truy cập vào website tại địa điểm IPv6 mẫu trên theo cổng 80 thì URL nhập vào sẽ như sau:

HTTP://[2001:0f68:0000:0000:0000:0000:1986:69af]:80/

Lưu ý rằng số của cổng trong tình huống đây là 80, nằm giữa dấu đóng ngoặc và dấu sổ. Một dấu “ : ” cũng đã được sử dụng để định rõ số cổng như trong giao thức IPv4.

Các thành phần của IPv6

Nếu đã quen với IPv4 thì bạn phải hiểu được một địa điểm IPv4 gồm có 4 phần, mỗi phần được phân biệt cùng nhau bằng dấu chấm. Một phần trong địa điểm này biểu hiện số mạng và các bit còn lại dùng để làm phân biệt một host cụ thể trên mạng. Số của các bit thực được thiết kế cho số mạng và số host khác nhau lệ thuộc vào subnet mask.

Một địa điểm IPv4 được chia làm các phần khác nhau, trong địa chỉ IPv6 cũng vậy. Trong bài trước, bạn đã hiểu rằng về các địa điểm IPv6 có 128 bit chiều dài. Khi một địa chỉ IPv6 được viết theo dạng đầy đủ, nó được diễn tả thành 8 phần khác nhau, mỗi phần có 4 số và được phân tách bằng dấu “ : ”. Mỗi phần có 4 chữ số này biểu lộ 16 bit dữ liệu, mỗi trường 16 bit này lại được sử dụng cho các mục tiêu riêng biệt.

Giới thiệu về địa chỉ IPv6 Cụ thể, mỗi một địa điểm IPv6 được phân thành ba phần khác nhau đó là: site prefix , subnet ID , interface ID . Ba thành phần này được nhận dạng bởi vị trí của các bit bên trong 1 địa chỉ. Ba trường đầu tiên trong IPv6 được biểu thị site prefix, trường kế đến biểu hiện subnet ID còn 4 trường cuối biểu lộ cho interface ID.

Site prefix cũng như như số mạng của IPv4. Nó là số được gán đến trang của bạn bằng một ISP. Điển hình, tất cả những máy tính trong cùng một địa thế sẽ được chia sẻ và một site prefix. Site prefix hướng tới dùng chung khi nó nhận ra mạng của bạn và cấp phép mạng có khả năng truy cập từ Internet.

Không giống như site prefix, subnet ID mang tính riêng bởi vì nó ở bên trong mạng của bạn, subnet ID miêu tả cấu trúc trang của mạng. Subnet ID làm việc rất giống với cách mà mạng con làm việc trong giao thức IPv4. Sự khác nhau lớn nhất ở này là các mạng có đó có thể dài 16 byte là được biểu thị trong định dạng hex nhiều hơn là ký hiệu chữ thập phân có nhiều dấu chấm. Một IPv6 subnet điển hình tương đương với một nhánh mạng đơn (trang) như 1 subnet của IPv4.

Interface ID làm việc giống như 1 ID cấu hình IPv4. Số này nhận dạng duy nhất một host riêng ở trong mạng. Interface ID (thứ mà đôi lúc được cho như là một thẻ) được cấu hình tự động điển hình dựa vào địa chỉ MAC của giao diện mạng. ID giao diện có thể được cấu hình bằng định dạng EUI-64.

Để xem một địa điểm IPv6 được phân chia như ra sao thành các phần con khác nhau của nó, bạn hãy giám sát đến địa điểm dưới đây:

2001:0f68:0000:0000:0000:0000:1986:69af

Phần site prefix của địa chỉ này là: 2001:0f68:0000 . Trường tiếp theo là 0000 biểu hiện subnet ID. Các byte còn lại ( 0000:0000:1986:69af ) biểu hiện interface ID.

Điển hình khi một tiền tố được biểu diễn, nó được viết trong 1 định hình đặc biệt. Các số 0 trong đấy đã lý giải trong bài viết trước và các tiền tố được theo sau bởi một dấu sổ và số. Số sau dấu sổ chỉ con số của các bit trong tiền tố. Trong thí dụ trước mình đã đề cập đến site prefix cho địa chỉ 2001:0f68:0000:0000:0000:0000:1986:69af là 2001:0f68:0000 . Khi tiền tố này còn có chiều dài 48 bit thì chúng ta nên thêm vào chỗ này a /48 để kết thúc nó hợp thức. Với các số lượng 0 đã bỏ, tiền tố kia sẽ viết như sau: 2001:f68::/48

Các loại địa chỉ IPv6

IPv6 có ba loại địa điểm khác nhau: Unicast, Multicast và Anycast. Địa chỉ Unicast được dùng để làm phân biệt các host đơn lẻ trên một mạng. Các địa chỉ Multicast lại sử dụng để phân biệt một nhóm các giao diện mạng cư trú tiêu biểu trong những máy tính phức hợp. Khi một gói dữ liệu được gửi đến địa chỉ multicast thì gói đó được gửi đến mọi thứ các giao diện mạng trong group Multicast.

Giống như các địa chỉ Multicast, các địa điểm Anycast cũng phân biệt một nhóm cụ thể các giao diện mạng thường trú ngụ trong các máy tính phức hợp. Vậy thứ gì tạo tuyến Anycast khác với một nhóm Multicast? Khi các gói được gửi đi đến một địa chỉ Multicast chúng được gửi đến tất cả những giao diện mạng trong nhóm. Trái ngược với điều đó, khi các gói dữ liệu được gửi đi tới một địa chỉ Anycast thì các gói này sẽ không gửi đến toàn bộ nhóm mà thay vì đó chúng chỉ được gửi đến thành viên gần nhất về mặt vật lý với người gửi.

Nguồn ảnh: Cisco

Các địa điểm Unicast:

Chúng mình đã giới thiệu cho những bạn định hình của một địa điểm IPv6 và những vị trí bit không giống nhau được sử dụng. Quả thực có hai loại địa điểm Unicast không trùng lặp đó là: toàn cục và liên kết cuộc bộ. Một địa điểm Unicast toàn cục có thể truy cập rộng rãi khi đang đấy địa điểm Unicast liên kết cuộc bộ chỉ cũng đều có thể truy cập đến các máy tính khác mà chia sẻ liên kết. Định dạng địa điểm IP mà tôi đã giới thiệu cho các bạn ở phần trước là một địa chỉ unicast toàn cục. Chúng mình đã nói đến loại địa điểm này bởi vì nó là loại địa chỉ chung nhất.

Các địa điểm Unicast liên kết cuộc bộ đã sử dụng một định hình địa chỉ khác với những địa điểm Unicast toàn cục. Giống như các địa chỉ Unicast toàn cục, các địa chỉ Unicast liên kết cục bộ cũng gồm 128 byte chiều dài. Sự không trùng lặp ở hai loại đây là các byte được phân phối không giống nhau và địa điểm sử dụng một site prefix đặc biệt.

Trong một địa chỉ Unicast liên kết nội bộ, một site prefix chiếm 10 bit đầu tiên của địa điểm thay vì 48 bit đầu như trong tình huống của địa chỉ Unicast toàn cục. Site prefix được dùng bằng một địa điểm Unicast liên kết cuộc bộ là: fe80 .

Khi site prefix được viết ngắn lại (so với một địa điểm Unicast toàn cục), bạn cũng có thể có thể không kinh ngạc khi thấy rằng con số của không gian chỉ định trong subnet ID đã được mở rộng từ 16 bit thành 64 bit. Những gì ở này là 64 bit đó không đích thực được sử dụng. Nhớ rằng một địa điểm IP liên kết cục bộ chỉ hợp lệ cho các máy tính đang chia sẻ một liên kết chung. Như vậy, không có nguyên nhân nào để cần thiết một subnet ID. 64 bit của không gian địa điểm mà được dành riêng cho subnet ID được biểu diễn như những số 0.

Interface ID cho 1 địa chỉ unicast liên kết cục bộ có bề dài 54 bit. Interface ID hầu như luôn được bắt nguồn từ 48 bit địa chỉ MAC đã gán vào card giao diện mạng để giao thức được phân danh giới. Dưới đây là một tỉ dụ về một địa điểm unicast liên kết cục bộ.

Fe80:0000:0000:0000:0000:0000:23a1:b152

Tất nhiên lúc các địa chỉ IPv6 được viết ra thì chúng thường được diễn tả với một loạt số lượng 0 đã trở nên triệt tiêu. Chính vì vậy, một công thức viết tắt đúng kỹ thuật địa điểm này là:

Fe80::23a1:b152

Khi các địa chỉ đã diễn tả với những số 0 đã trở nên triệt tiêu, thì địa chỉ đầu tiên trông giống như bất kỳ địa điểm IPv6 nào. Nhớ rằng bạn cũng đều có thể nói được sự khác nhau giữa một địa điểm Unicast liên kết cục bộ với những địa điểm khác bởi vì một địa điểm Unicast cục bộ sẽ luôn luôn bắt đầu với fe80.

Địa chỉ Multicast:

Giới thiệu về địa chỉ IPv6 Như chúng tôi đã giải thích ở phần trước, các địa chỉ Multicast được dùng làm nhận dạng một nhóm các giao diện mạng, được biết đến như 1 nhóm Multicast. Các giao diện mạng điển hình được xác định trên các máy tính đa hợp nhưng đây chẳng cần là một thiết bị thuần túy. Các địa chỉ Multicast được sử dụng để gửi thông tin đến bất kỳ giao diện mạng nào đã được định nghĩa thuộc sở hữu nhóm Multicast.

Một trong những điều thú vị nhất về các địa điểm Multicast đó là chúng tận gốc riêng biệt, một giao diện mạng có 1 địa điểm Multicast không có nghĩa là máy đó chẳng thể có một địa chỉ Unicast hoặc là nằm ở phía trong số nhóm Multicast khác Trong thực tế, một vài hệ điều hành đã cộng thêm một adapter mạng của máy tính đối với những nhóm Multicast khác nhau tại thời điểm địa chỉ unicast của adapter được định nghĩa. Ví dụ: hệ điều hành Solaris tự động thêm vô các adapter mạng vào nút Solicited và các nhóm multicast tất cả những nút (hoặc tất cả các router). Trong trường hợp bạn không quen với Solaris, nhóm nút Solicited được dùng cho chuyện phát giác ra IPv6 khác đã kích hoạt các thiết bị trên mạng. Windows Vista cũng có một chức năng tương tự.

Chúng tôi đã lý giải cho các bạn nghe về các địa điểm multicast được dùng cho các địa chỉ Multicast trông như thế nào. Mặc dù một địa chỉ IPv6 dài 128 bit nhưng 8 bit trước mắt của địa điểm lại định nghĩa cho địa chỉ Multicast. Mỗi một địa chỉ Multicast sử dụng một định dạng tiền tố là 11111111. Khi được biểu diễn trong ký hiệu hex và “:” thì một địa điểm multicast luôn luôn bắt đầu bằng FF.

Bốn bit tiếp theo của địa điểm Multicast là các bit cờ (flag). Tại thời điểm hiện tại, ba bit đầu trong nhóm bốn bit là không dùng đến (chính vì vậy chúng được thiết lập là 0). Bit cờ thứ tư được biết đến như một bit nốt đệm. Nhiệm vụ của nó là để biểu lộ xem địa chỉ đó là một địa điểm tạm thời hay thường xuyên. Nếu địa chỉ đó là địa điểm đều đều thì bit này sẽ được gán bằng 0 còn ngược lại nó sẽ được gán bằng 1.

Bốn bit kế đến trong địa chỉ Multicast được biết tới như các bit ID Scope. Số lượng của không gian dự trữ cho những bit Scope ID là 4 bit, điều ấy có tức là có 16 giá trị không giống nhau được biểu thị. Mặc dù không phải mọi thứ 16 giá trị đều được dùng tại thời điểm hiện tại, 7 trong các các giá trị kia được dùng để làm xác định phạm vi của địa chỉ. Ví dụ: nếu một địa chỉ có độ rộng ngoài nước thì địa chỉ là hợp lệ trên toàn bộ Internet. Hiện tại đã sử dụng các bit Scope ID như sau:

Giá trị thập phân Giá trị nhị phân Phạm vi địa điểm
0 0000 Dự trữ
1 0001 Phạm vi nút nội bộ
2 0010 Phạm vi liên kết nội bộ
5 0101 Phạm vi trang nội bộ
8 1000 Phạm vi tổ chức nội bộ
14 1110 Phạm vi thế giới
15 1111 Dự trữ

112 bit còn lại được dùng cho nhóm ID. Kích thước của tập thể nhóm ID cấp phép các địa điểm Multicast dùng hết 1/256 phần không gian địa chỉ của IPv6.

Để đặt sơ đồ địa điểm này trong phần sắp tới, chúng tôi cho bạn xem một số địa chỉ Multicast được sử dụng đều đều nhất:

FF0x0:0:0:0:0:1

Đây là một Multicast cho tất cả các nút. Bạn cũng đều có thể phải lưu ý đến chữ “x” trong địa chỉ, nó không cần là một kí tự hệ số hex. Nó là một trình giữ chỗ cho phạm vi. Địa chỉ cụ thể này còn có thể sử dụng độ rộng nút nội bộ (FF01:0:0:0:0:0:1) hoặc độ rộng liên kết nội bộ (FF02:0:0:0:0:0:1).

FF0x:0:0:0:0:0:2

Địa chỉ Multicast này được gán cho tất cả những router bên trong phạm vi đã định nghĩa. Ở đây cũng có thể có kí tự “x”, nó cũng đều có chức năng tương tự. Các độ rộng hợp lệ là nút nội bộ (FF01:0:0:0:0:0:2), liên kết nội bộ (FF02:0:0:0:0:0:2) và trang nội bộ (FF05:0:0:0:0:0:2).

Địa chỉ Anycast:

Nếu đã nghiên cứu giao thức IPv4 thì bạn cũng đều có thể biết được rằng các định nghĩa của Unicast và Multicast cũng tồn tại ở IPv4, mặc dù vậy ở IPv6 chúng được bổ sung nhiều vấn đề khác. Anycast là duy nhất với IPv6. Anycast làm việc giống như một sự phối hợp các địa điểm Unicast và Multicast. Một địa điểm unicast được sử dụng để gửi dữ liệu đến một người nhận cụ thể nào đó, một địa chỉ Multicast được dùng để gửi dữ liệu đến một nhóm người nhận còn một địa điểm anycast thì được dùng làm gửi dữ liệu đến một người nhận cụ thể ở ngoài nhóm người nhận.

Trong tình huống bạn đang phân vân rằng anycast được tạo như 1 cách làm thăng bằng tải trở lên dễ dàng hơn. Hãy hình dung một tình huống bạn cần cung cấp một con số lớn người dùng làm họ có thể truy cập đến các công ty hoặc đến một router của họ. Trong trường hợp như vậy thì nó thường làm cho bạn phải sử dụng nhiều máy chủ để cấu hình công ty đang được cung cấp hoặc sử dụng các router phức hợp hay bất cứ trường hợp nào có thể. Lý do tại đây là vì nó cũng có thể có thể cấp phép phân phối luồng công việc giữa các thiết bị phức hợp.

Loại thăng bằng tải này thực hiện không dễ khăn nếu sử dụng Ipv4 (mặc dù nó đã được thực hiện). Siệc sử dụng các địa điểm anycast với IPv6 sẽ cho hữu hiệu tuyệt đối với việc thăng bằng tải. Bạn cần gửi một yêu cầu người sử dụng đến một trong số thiết bị, trong khi chẳng thể quan tâm đến các thiết bị đã được chỉ định quản lý yêu cầu mà chỉ là đòi hỏi phải được quan tâm. Bằng việc sử dụng các địa chỉ Anycast, mỗi đòi hỏi sẽ tự động gửi đến thiết bị gần nhất về mặt địa lý đến máy tính đưa ra yêu cầu. Trong một số tình huống, anycast thậm có thể được sử dụng để cung cấp lỗi dung sai cho một router lỗi. Lỗi cũng có thể được phát giác và các đòi hỏi cũng đều có thể được gửi lại vòng qua một router khác lân cận.

Vấn đề kỳ lạ nhất với các địa điểm anycast là không có sơ đồ định địa chỉ đặc biệt nào. Với những gì trong bài viết này, bạn đã thấy được có rất nhiều loại nguyên lý bao trùm sử dụng và cấu trúc của các địa điểm unicast và Multicast là để gán và một địa điểm Unicast cho những host phức hợp. Với việc làm như vậy các địa điểm Unicast trở thành một địa điểm Anycast.

Trong loạt bài viết này, chúng mình đã cố gắng lướt qua 1 cách cơ bản về giao thức IPv6. Hầu hết các quản trị viên có thể chẳng cần phải trở thành các chuyên gia ngay tức thì nhưng IPv6 là một thành phần cần thiết trong Windows Vista và Longhorn Server. Chính vì vậy, chúng ta tìm hiểu để biết một ít về nó là một việc làm cần thiết.

  • Cách khắc phục lỗi IPv6 No Network Access
  • Cách bung file file Zip trực diện trên Google Drive
  • Các cách tìm địa chỉ IP Router trên Windows 10
  • Vô hiệu hóa IPv6 để khắc phục sự cố kết nối Internet trên máy tính Windows

IPv6,ipv6 là gì,giới thiệu về IPv6,tìm hiểu ipv6,các thành phần của ipv6,không gian địa chỉ ipv6,các loại địa chỉ ipv6

Nội dung Giới thiệu về địa chỉ IPv6 được tổng hợp sưu tầm biên tập bởi: Tin Học Trường Tín. Mọi ý kiến vui lòng gửi Liên Hệ cho truongtin.top để điều chỉnh. truongtin.top tks.

Bài Viết Liên Quan


Xếp Hạng post

Bài Viết Khác

--